12/11/2024 10:28
Tuy nhiên, bối cảnh mới cùng những tồn tại trong triển khai TDCS trong thời gian qua đòi hỏi cần có một văn bản chỉ đạo mới từ cơ quan của Đảng đề tạo bước đột phá và nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta.
Các chính sách tín dụng ưu đãi đã kịp thời hỗ trợ khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: BTV
KẾT QUẢ ĐẠT ĐẠT ĐƯỢC
Chỉ thị số 40/CT-TW đã đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực, hiệu quả với những thành quả nổi bật. Trong đó, phải kể đến việc tập trung huy động được nguồn vốn lớn, đa dạng, không ngừng tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, tạo nguồn lực lớn đáp ứng kịp thời và ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Đến ngày 31/10/2024, tổng nguồn vốn TDCS xã hội đạt 375.848 tỷ đồng, tăng 241.186 tỷ đồng (gấp 2,8 lần) so với khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 10,8% và điểm nổi bật trong triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW là 100% địa phương cấp tỉnh, cấp huyện trong cả nước đã quan tâm cân đối, bố trí ngân sách ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để bổ sung nguồn vốn cho vay đến nay đạt 48.943 tỷ đồng, chiếm 12,8%/tổng nguồn vốn, tăng 45.135 tỷ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW.
Những năm qua, tại tỉnh Trà Vinh, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương luôn xác định hoạt động TDCS là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc cùng với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong công tác cho vay, quản lý việc sử dụng nguồn vốn TDCS ngày càng hiệu quả hơn. Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và nhiều văn bản để tập trung các nguồn vốn TDCS xã hội từ ngân sách Nhà nước chuyển sang NHCSXH (đến nay tỉnh đã cân đối, ưu tiên bố trí nguồn vốn địa phương ủy thác qua NHCSXH tỉnh đến đạt trên 633 tỷ đồng).
Quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã đạt được những kết quả phấn khởi, NHCSXH chi nhánh tỉnh Trà Vinh đã chuyển tải kịp thời chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đúng đối tượng thụ hưởng. Đến nay, dư nợ TDCS trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đạt 4.677 tỷ đồng, tăng trên 3.100 tỷ đồng so với năm 2014, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hàng năm đạt trên 18%/năm, với trên 129.000 hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang được vay vốn; tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp, chỉ chiếm 0,18%/tổng dư nợ. Đây là những con số rất ấn tượng, thể hiện sự quyết tâm cao trong lãnh, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cấp ủy, chính quyền địa phương đối với vai trò của TDCS xã hội. Nhờ đó, thời gian qua số hộ nghèo của tỉnh giảm nhanh.
Cụ thể: giai đoạn từ 2014 - 2020 tỷ lệ hộ nghèo từ 10,66% giảm xuống còn 1,8%; giai đoạn từ năm 2021 đến cuối năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo từ 1,8% giảm xuống còn 1,19%; TDCS xã hội đã góp phần rất quan trọng xây dựng tỉnh Trà Vinh đến nay đã hoàn thành tỉnh nông thôn mới.
Kết quả đạt được nêu trên có sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển ổn định và bền vững của hoạt động TDCS xã hội. Các cơ quan hữu quan ở Trung ương và các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở luôn xác định, việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động TDCS xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong chương trình, kế hoạch hoạt động công tác.
Các cấp ủy đảng, chính quyền đã gắn chặt TDCS xã hội với chương trình xây dựng nông thôn mới, phát triển giáo dục dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững. TDCS xã hội được xem là một giải pháp quan trọng trong công tác giảm nghèo đa chiều bền vững; thúc đẩy giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập; góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cũng đã thường xuyên chủ động, tích cực đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về TDCS xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ
Hoạt động TDCS xã hội sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng và đã trở thành điểm sáng “điểm sáng” và là “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, đặc biệt là người nghèo, người đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng yếu thế trong xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, một trong những khó khăn hiện nay là cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững. Nguồn vốn TDCS chủ yếu sử dụng cho vay trung, dài hạn (dư nợ trung, dài hạn chiếm 99,4%), trong đó nguồn vốn dài hạn trên 05 năm chỉ chiếm 41,8%; nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp chiếm tỷ trọng thấp (12%). Mặt khác, nguồn vốn ủy thác tại một số tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở tại địa phương. Từ đó, để đảm bảo cơ cấu nguồn vốn sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững cần triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả.
Trước hết, đề nghị Ban Bí thư xem xét, kiến nghị Bộ Chính trị ban hành nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo đối với TDCS xã hội trong bối cảnh mới. Cùng với đó, đề nghị Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội các địa phương tăng cường hơn nữa việc giám sát hoạt động TDCS xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để TDCS xã hội phát huy hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị và phát triển bền vững của hệ thống NHCSXH.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư, Nghị quyết của Bộ Chính trị về TDCS xã hội trong bối cảnh mới; chỉ đạo duy trì, triển khai thực hiện có hiệu quả mô hình tổ chức; phương thức quản lý TDCS đặc thù tại NHCSXH. Chính phủ có kế hoạch tăng nguồn vốn cho vay qua NHCSXH. Trước mắt bố trí đủ 19.700 tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bố trí cấp bổ sung vốn Điều lệ hàng năm cho NHCSXH. Bố trí cấp bổ sung vốn thực hiện các chương trình do ngân sách Nhà nước cấp, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng theo mục tiêu đề ra của chương trình. Chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm bố trí nguồn vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác ủy thác cho NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn.
Các bộ, ngành Trung ương báo cáo cấp có thẩm quyền bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm cho các chương trình, dự án, chương trình mục tiếu quốc gia, trong đó có nội dung NHCSXH. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phân bổ nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo từng năm để đáp ứng nhu cầu giải ngân cho hộ đồng bào nghèo cả giai đoạn của chính sách; phân bổ nguồn vốn hỗ trợ và nguồn vốn cho vay đồng bộ để các địa phương chủ động thực hiện; tạo điều kiện cho NHCSXH được tiếp nhận nguồn vốn ODA để tạo lập nguồn vốn ổn định lâu dài, lãi suất thấp để tăng nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo xây dựng hoàn thiện cơ chế tạo lập nguồn vốn, cơ chế tài chính, tín dụng của NHCSXH theo hướng ổn định và bền vững; giảm tối đa các chính sách hỗ trợ, vay không lãi để bảo đảm chi phí và gắn trách nhiệm quản lý, thực hiện nghĩa vụ vay, hoàn trả nợ; hoàn thiện chính sách cho vay, thời điểm vay, định mức và lãi suất cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, đặc biệt hộ nghèo, hộ cận nghèo dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Với phương châm “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ” và “nơi nào có người nghèo và đối tượng chính sách, nơi đó có NHCSXH”, NHCSXH cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đơn giản hóa trình tự, thủ tục vay vốn tín dụng hộ nghèo; sớm nghiên cứu tích hợp các cơ chế vay ưu đãi cho các mục tiêu của từng nhóm đối tượng hộ nghèo và hộ cận nghèo (trong đó hộ nghèo, hộ cận nghèo dân tộc thiểu số được hưởng mức ưu đãi về lãi suất và ân hạn, gia hạn cao hơn, các hộ nghèo, cận nghèo cư trú vùng miền núi, biên giới, khu vực đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng mức ưu đãi về lãi suất và ân hạn, gia hạn cao nhất…).
Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp tiếp tục thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nâng cao hiệu quả giám sát của toàn dân đối với hoạt động TDCS xã hội trên địa bàn. Tiếp tục triển khai, mở rộng cuộc vận động “Vì người nghèo”; đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét được gửi Quỹ “Vì người nghèo” tại NHCSXH để bổ sung nguồn vốn thực hiện TDCS xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về TDCS xã hội đến hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân; làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay, xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi. Phối hợp với chính quyền địa phương, NHCSXH củng cố, nâng cao chất lượng TDCS trên địa bàn.
Hàng năm, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm cân đối, ưu tiên bố trí ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác ủy thác sang NHCSXH nhằm bổ sung nguồn vốn cho vay theo khoản 6, Điều 4 Nghị quyết số 111/2024/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Theo đó, căn cứ khả năng cân đối ngân sách của địa phương, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện được quyết định việc bố trí vốn ngân sách của địa phương bao gồm vốn đầu tư công, vốn đầu tư phát triển khác, kinh phí thường xuyên, giao UBND cùng cấp ủy thác cho NHCSXH tại địa phương để hỗ trợ thực hiện một số hoạt động sau đây của các chương trình mục tiêu quốc gia: phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, ổn định sinh kế, hỗ trợ cải thiện nhà ở; phát triển các sản phẩm thuộc Chương trình mỗi xã một sản phẩm; duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống; phát triển du lịch nông thôn.
KIẾN QUỐC
Chuyến thăm là dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Malaysia, góp phần củng cố nền tảng tin cậy chính trị giữa hai nước ở mức độ cao, thể hiện chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là luôn coi trọng và mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, trong đó có Malaysia.