24/03/2022 11:03
Ông Đỗ Văn Cón giới thiệu mô hình nuôi lươn không bùn.
Bên con đường đal nhỏ đi vào ấp Ngã Ba, căn nhà tuy đơn sơ nhưng đong đầy hạnh phúc. Bên tách trà nóng, chúng tôi được ông Đỗ Văn Cón kể về quãng thời gian ông tham gia kháng chiến cho đến lúc về địa phương đến nay.
Sinh ra trong thời đất nước loạn lạc, 20 tuổi, ông Cón quyết định đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Tham gia vào lực lượng du kích của xã từ năm 1968 đến năm 1975. Sau ngày đất nước giải phóng, cũng với chiếc ba lô và hai bàn tay trắng, gia cảnh nghèo nên khi lập gia đình ông cũng không được giúp đỡ gì nhiều ngoài miếng đất vài công trồng mía kém hiệu quả.
Ông suy nghĩ, ruộng có, vườn có nhưng nếu không chí thú làm ăn thì cái nghèo vẫn cứ đeo đẳng. Nghĩ vậy nên ông tự nhủ rằng, mình phải gắng sức lao động, vươn lên trong cuộc sống bằng chính sức lực và suy nghĩ của mình, biết tận dụng và phát huy tư liệu sản xuất sẵn có để làm thay đổi cuộc sống gia đình. Và chính suy nghĩ ấy đã thôi thúc ông làm việc hăng say hơn với hy vọng tăng thu nhập, để các con được học hành, để cuộc sống gia đình đỡ vất vả. Ban đầu, ngoài trồng mía, ông còn trồng nhãn, trồng rau, cải, đi làm mướn theo thời vụ… cuộc sống tuy có phần thay đổi hơn trước nhưng với ông như vậy vẫn chưa gọi là thành công. Với ý chí và nghị lực của một CCB, ông luôn phấn đấu.
Trong một lần qua huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng mua phân dơi về bón cho cây nhãn, thấy người ta làm chuồng nuôi dơi lấy phân nên hỏi thăm, rồi về ông bắt đầu làm theo. Chuồng dơi được ông làm theo hình lục giác, 06 trụ cao 09m, nền chuồng dài 08m, ngang 04m, nóc chuồng lợp bằng lá dừa nước, trên trần treo tàu lá thốt nốt để làm ổ cho dơi. Mỗi ngày, vào buổi trưa, gia đình ông thu gom phân có sẵn trong lưới và đem phơi khô. Trong quá trình nuôi, ông Cón chăm sóc thường xuyên, mùa mưa phải lấy tấm lá chầm che kín đừng cho ướt tổ dơi, mùa nắng nóng phải bỏ bớt lá thốt nốt trong ổ ra và khoảng 03-04 tháng, phải thay lá thốt nốt 01 lần.
Ông Cón cho biết: mấy năm trước ít người nuôi dơi, nên thu phân dơi được nhiều. 02 năm nay, người nuôi dơi nhiều, chuồng được xây dựng nhiều nên số lượng phân thu được ít lại. Trung bình khoảng 02 ngày được 01 giạ phân dơi, khoảng 06kg. 01 tháng có khoảng từ 18-20 giạ, thương lái ở Vĩnh Long xuống tận nhà mua hàng tháng, mỗi giạ có giá 280.000 đồng. 01 lần bán được khoảng 05 triệu đồng. Trung bình 01 năm sau, khi trừ chi phí mua lá, thu nhập khoảng 45 triệu đồng từ nuôi dơi lấy phân. Từ sự tảo tần, CCB Đỗ Văn Cón đã nuôi các con trưởng thành, hiện đã có cuộc sống ổn định, nhà cửa khang trang. 02 trong 03 người con của ông cũng được ông “truyền nghề” xây dựng chuồng nuôi dơi lấy phân và đang thu hoạch.
Không chỉ dừng lại ở nghề nuôi dơi, 02 năm nay, ông “bén duyên” với nghề nuôi lươn không bùn. Sau khi xem phóng sự nghề nuôi lươn không bùn trên đài truyền hình, ông bắt đầu tìm hiểu kỹ và mua con giống về nuôi. Ông Cón cho biết: để nuôi lươn, tôi tận dụng bể xi măng, bể nhựa để nuôi. Mới bắt đầu, tôi thả nuôi 05 bể, mỗi bể 3.000 con. Sau 06 tháng nuôi, lươn phát triển tốt, ông không bán lươn thịt mà quyết định nuôi lươn sinh sản để ương giống nuôi tiếp. Theo ông Cón, nuôi lươn quan trọng là sử dụng nguồn nước lắng, lọc kỹ và có lưới để lươn trú ẩn.
Lươn con khi bắt về, sau 06 tháng nuôi, đạt trọng lượng từ 200 gram/con trở lên sẽ bắt đầu sinh sản. Khi quan sát trên mặt bể có mảng bọt nước, càng lúc càng to ra thì lươn sẽ sinh sản, ông vớt trứng vào các khay nhựa để ấp trứng và ươn, dưỡng lươn con. Ông Cón cho biết, việc chăm sóc lươn con cũng đơn giản, lúc mới nở cho ăn trùng chỉ, rồi trùng quế xay nhuyễn. Khi lươn được từ 1,5-02 tháng tuổi, cho ăn thức ăn công nghiệp và bắt đầu xuất bán con giống. Ngày chúng tôi đến, ông đã ương được gần 12.000 con lươn, mỗi tháng xuất bán khoảng 3.000 con, sau khi trừ chi phí, còn lại 8,5 triệu đồng. Giờ đây, ông đã khá thành công với 02 mô hình phát triển kinh tế mà ông đã tự tìm hiểu, học hỏi và quyết tâm làm theo.
Không chỉ làm kinh tế giỏi, ông Đỗ Văn Cón còn nhiệt tình tham gia công tác ở địa phương. Được biết, trước đây khi chưa được đầu tư xây dựng, đường xá rất khó đi, lau sậy um tùm, mưa xuống lầy lội, ngày ngày ông rong ruổi trên các con đường, bờ ruộng, đi đến những hoàn cảnh khó khăn, nhất là hội viên nghèo để thăm hỏi, giúp đỡ. Khi tôi hỏi “làm sao ông sắp xếp được việc nhà, việc nước”. Ông cười, trả lời: “làm công tác tác địa phương là động lực cho tôi không ngừng nâng cao trình độ, chủ động học tập, bổ sung kiến thức làm kinh tế. Nhờ vậy mới vừa lo việc nước, đảm bảo việc nhà được”. Ông cho biết, ông từng làm công an viên ấp, Chi hội trưởng Chi hội CCB ấp.
Từ sự quyết tâm của ông, của cán bộ, CCB ở ấp, xã đã ra sức vận động Nhân dân đóng góp cùng với phong trào XDNTM nên nhiều con đường dần được sửa chữa, nâng cấp và mở rộng, đèn đường chiếu sáng, dễ dàng đi lại. Chúng tôi hỏi “bí quyết” về công tác vận động Nhân dân, ông Cón nói gọn: “lấy dân làm gốc. Mọi việc thực hiện theo quy chế dân chủ thì tất nhiên phải thuận lòng dân, đúng ý Đảng”. Cũng với phương châm ấy, ông luôn răn dạy các con phải luôn học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại: “đối với mình phải cần, kiệm, liêm, chính, trong công việc phải tận tụy, đối với dân phải kính trọng, lễ phép” - kim chỉ nam sống của ông.
Ông Lâm Phong Vũ, Phó Chủ tịch Hội CCB xã cho biết: ông Đỗ Văn Cón là CCB giàu nghị lực, vượt qua mọi khó khăn vươn lên phát triển kinh tế gia đình, hết lòng với Nhân dân, ông là tấm gương sáng để hội viên học hỏi làm theo.
Thật vậy, với bản lĩnh và tinh thần của Bộ đội Cụ Hồ, ông Đỗ Văn Cón đã không ngại khó, chí thú làm ăn. Từ đó, ông đã thay đổi cuộc sống gia đình và đóng góp cho địa phương bằng đôi tay và nghị lực của mình.
Bài, ảnh: SƠN TUYỀN
Trong những năm qua, phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” đã lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, hội viên phụ nữ trên địa bàn xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè. Thông qua phong trào đã xuất hiện nhiều tấm gương hội viên phụ nữ điển hình làm kinh tế giỏi, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc.