24/03/2025 07:54
![]() |
|
Biên khảo của TRẦN ĐIỀN |
Trong lịch sử hình thành và phát triển, trước khi trở thành “Tỉnh”, Trà Vinh là đơn vị hành chính cấp “Huyện” xuất hiện trên sử liệu Nam bộ từ năm 1825. Hai trăm năm sau - Năm 2025, “Huyện” Trà Vinh phát triển thành “Tỉnh” Trà Vinh có 09 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: huyện Càng Long, huyện Cầu Kè, huyện Tiểu Cần, huyện Trà Cú, huyện Châu Thành, huyện Cầu Ngang, huyện Duyên Hải, thị xã Duyên Hải và thành phố Trà Vinh với 104 xã, phường, thị trấn(1), 752 ấp, khóm. ((1)Theo số liệu của Tổng cục Thống kê).
Năm Ất Dậu 1825, Vua Minh Mạng năm thứ 6, cải đặt “Phủ Trà Vinh”(2) thành “Phủ Lạc Hóa”, thuộc Gia Định Thành với 2 huyện: huyện Trà Vinh và huyện Tuân Nghĩa, có 11 tổng, 146 làng - Theo đó: Huyện Trà Vinh nằm vị trí phía Nam Sông Tiền, gần giống với các huyện Càng Long, Châu Thành, thành phố Trà Vinh, một phần huyện Cầu Ngang và thị xã Duyên Hải ngày nay. Huyện Tuân Nghĩa nằm vị trí phía bắc Sông Hậu, gần giống với các huyện Duyên Hải, Trà Cú, một phần huyện Cầu Ngang và Tiểu Cần ngày nay. ((2) Phủ Trà Vinh được thành lập năm Đinh Sửu 1757 dưới thờì Chúa Nguyễn Phúc Khoát, trực thuộc Gia Định Thành).
Như vậy, đơn vị hành chính cấp huyện dưới thời phong kiến Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện trong sử liệu Nam bộ với tên “Huyện” Trà Vinh trực thuộc Gia Định Thành vào năm Ất Dậu 1825.
Năm Nhâm Thìn 1832, đời Vua Minh Mạng năm thứ 13, có cuộc cải cách hành chính mới rộng khắp toàn quốc, đổi các trấn từ Bắc chí Nam cùng một tên gọi thống nhất là “Tỉnh” - Theo đó, vùng đất Nam Bộ được chia thành 06 tỉnh gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và đặt tên là “Nam kỳ lục tỉnh”. Phủ Lạc Hóa gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Nghĩa, thuộc Gia Định Thành được sáp nhập vào thành một Phủ của tỉnh Vĩnh Long (tỉnh Vĩnh Long lúc này có 4 Phủ: Phủ Định Viễn, Phủ Lạc Hóa, Phủ Hoằng An và Phủ Hoằng Trị)(3). (3) Theo “Lịch sử tỉnh Vĩnh Long 1732 - 2000”, do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long biên soạn - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội ấn hành năm 2002 (trang 58).
Huyện Trà Vinh thuộc Phủ Lạc Hóa tồn tại xuyên suốt 42 năm 1825 - 1867 (7 năm, 1825 - 1832, thuộc Phủ Lạc Hóa, Gia Định Thành; 35 năm, 1832 - 1867 thuộc Phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long).
87 năm “Nam kỳ lục tỉnh” trở thành thuộc địa của Pháp (1867 - 1945), đơn vị hành chính huyện Trà Vinh (thuộc Phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long), nhiều lần thay đổi tên gọi, như:
Sau khi đặt ách thống trị lên 6 tỉnh Nam Kỳ (tháng 6/1867), đầu tháng 7/1867, người Pháp đổi Phủ của 6 tỉnh Nam kỳ thành Hạt (có sử liệu ghi thành Huyện), sắp xếp bộ máy cai trị tỉnh Vĩnh Long từ 4 Phủ, còn 3 Hạt - Sở lỵ Hạt Lạc Hóa đặt tại huyện Trà Vinh, vị trí gần giống vị trí thành phố Trà Vinh bây giờ. Hạt Lạc Hóa từ ngày thuộc Pháp (15/7/1867) có 10 tổng, 200 làng (giảm 1 tổng, tăng 54 làng so năm 1825), do Trưởng tòa thanh tra Trung úy thủy quân lục chiến người Pháp, trông coi.
Cuối năm 1867, trên lãnh thổ 6 tỉnh Nam kỳ, Toàn quyền Đông dương Pháp thiết lập 24 Hạt Tham biện (có sử liệu ghi Sở Tham biện) - Hạt Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ được thiết lập thành hai Hạt Tham biện (hoặc Sở Tham biện) - Hạt Tham biện Trà Vinh và Hạt Tham biện Bắc Trang.
Ngày 05/06/1871, Thống đốc Nam kỳ quyết định giảm từ 24 Hạt Tham biện của Nam kỳ xuống còn 18. Hạt Tham biện Bắc Trang giải thể, nhập, vào Hạt Tham biện Trà Vinh, gọi tên chung là Hạt Tham biện Trà Vinh.
Ngày 05/01/1876, Thống soái Nam kỳ ra Nghị định phân chia toàn bộ “Nam kỳ lục tỉnh” thành 4 khu vực hành chính lớn là: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc. Mỗi khu vực hành chính lớn đó được chia thành nhiều khu hành chính nhỏ (gọi là tiểu khu hành chính). Theo cách phân chia này, Hạt Tham biện Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long được cải thành tiểu khu Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông dương ban hành Nghị định đổi tên các tiểu khu ở Nam kỳ thành “Tỉnh” - Theo đó, tiểu khu Trà Vinh đổi thành tỉnh Trà Vinh (Province de TraVinh) và chính thức thi hành vào ngày 01/01/1900, có 13 tổng, 215 thôn, xã, được biết như sau:
1. Tổng Bình Trị có 12 xã, thôn
2. Tổng Trà Bình có 14 xã, thôn
3. Tổng Trà Nhiêu có 16 xã, thôn
4. Tổng Trà Phú có 10 xã, thôn
5. Tổng Vĩnh Lợi có 26 xã, thôn
6. Tổng Vĩnh Trị có 15 xã, thôn
7. Tổng Ngãi Hòa có 17 xã, thôn
8. Tổng Ngãi Long có 18 xã, thôn
9. Tổng Long Vang có 12 xã, thôn
10. Tổng Long Ngãi có 28 xã, thôn
11. Tổng Thành Trị có 22 xã, thôn
12. Tổng Thành Hóa có 11 xã, thôn
13. Tổng Bình Phước có 14 xã thôn
Cuộc cải cách bộ máy hành chính tổng và làng trên địa phận tỉnh Trà Vinh từ năm 1900 được chính quyền thực dân Pháp liên tục điều chỉnh. Từ ngày 20/02/1911, tỉnh Trà Vinh bắt đầu thành lập các đơn vị hành chính cấp quận. Đến năm 1916, tỉnh Trà Vinh có 5 quận, 20 tổng, 145 làng(4) được phân bổ như sau: (4) Theo “Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859 - 1954)”, Nguyễn Đình Tư biên soạn - Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2017 (trang 615) .
1. Quận Châu Thành có 3 tổng, 26 làng
2. Quận Bắc Trang có 5 tổng, 34 làng
3. Quận Bàng Đa có 4 tổng, 25 làng (có sử liệu ghi Bang Đa)
4. Quận Càng Long có 4 tổng, 28 làng
5. Quận Ô Lắc có 4 tổng, 32 làng (có sử liệu ghi Ô Lạc)
Từ ngày 01/01/1928, tỉnh Trà Vinh chia lại địa bàn các quận, quy định danh xưng quận lỵ và địa bàn từng quận, giải thể 2 quận Bàng Đa và Ô Lắc, thành lập thêm 2 quận Cầu Ngang và Tiểu Cần - Theo đó:
1. Quận Châu Thành có 4 tổng: Trà Nhiêu, Trà Phú, Trà Bình, Bình Phước - Quận lỵ Châu Thành đặt tại Long Đức
2. Quận Cầu Ngang có 3 tổng: Bình Trị, Vĩnh Lợi, Vĩnh Trị - Quận lỵ Cầu Ngang đặt tại Thuận Mỹ.
3. Quận Bắc Trang có 3 tổng: Ngãi Hòa Trung, Thành Hóa Thượng, Ngãi Hòa Thượng - Quận lỵ Bắc Trang đặt tại Trà Cú
4. Quận Càng Long có 2 tổng: Bình Khánh, Bình Khánh Thượng - Quận lỵ Càng Long đặt tại An Trường.
5. Quận Tiểu Cần có 2 tổng: Ngãi Long, Thành Hóa Trung - Quận lỵ Tiểu Cần đặt tại Tiểu Cần.
Từ năm 1930, các tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và chính quyền kháng chiến chống thực dân Pháp được thành lập tại tỉnh Trà Vinh theo đơn vị hành chính, trong đó có đơn vị hành chính cấp quận hiện hữu, gọi là Quận ủy.
Năm 1940, đế quốc Nhật Bản chiếm Nam Kỳ từ tay thực dân Pháp.
Ngày 01/10/1942, Thống sứ Nhật Bản ban hành Nghị định giải thể quận Tiểu Cần, nhập vào quận Châu Thành, điều chỉnh lại các đơn vị hành chính cấp quận trực thuộc tỉnh, các tổng và làng được điều chỉnh theo chiều hướng giảm, còn lại như sau(5): (5) Theo “Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859 - 1954)”, Nguyễn Đình Tư biên soạn - Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2017 (trang 617).
1. Quận Châu Thành có 4 tổng, 15 làng.
2. Quận Càng Long có 2 tổng, 9 làng.
3. Quận Trà Cú có 3 tổng, 10 làng (quận Trà Cú được cải tên từ quận Bắc Trang)
4. Quận Cầu Ngang có 3 tổng, 12 làng.
Tháng 3/1945, Thống sứ Nhật Bản đổi Nam kỳ thành Nam Bộ.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công. Ngày 23/9/1945, giặc Pháp trở lại tái chiếm Nam Bộ.
Tháng 02/1948, chính quyền kháng Pháp tỉnh Trà Vinh tách địa bàn nội ô làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, quận Châu Thành, thành lập tổ chức Đảng và Ủy ban Kháng chiến hành chính cấp quận gọi là thị xã Trà Vinh. Như vậy từ tháng 02/1948, về phía chính quyền kháng Pháp tỉnh Trà Vinh có thêm một đơn vị hành chính cấp quận mang tên thị xã Trà Vinh trong nội bộ làng Long Đức(6). (6) Theo “Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân thị xã Trà Vinh anh hùng 1930 - 1975” - Ban Tuyên giáo Thị ủy Trà Vinh ấn hành năm 2001, trang 125.
Ngày 28/02/1949, Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ ra Nghị định số 46/NĐ đổi tên quận thành huyện, làng thành xã trên phạm vi toàn Nam bộ (Theo Sắc lệnh số 148/SL, ngày 25/3/1948, của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Từ tháng 3/1949, các quận trong tỉnh Trà Vinh được chính quyền kháng chiến đổi tên thành huyện, các làng trong huyện được đổi thành xã (không có đơn vị trung gian cấp tổng)(7). ((7) Theo “Lịch sử ngành Tuyên giáo huyện Trà Cú 1930 - 2020”- Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành quý IV/ 2024.
Ngày 27/6/1951, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ban hành Nghị định số 174/NB-51 nhập tỉnh Trà Vinh với tỉnh Vĩnh Long, lấy tên chung tỉnh Vĩnh Trà.
Ngày 17/7/1951, Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ ban hành Nghị định số 197/NB-51 điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Vĩnh Trà, tách 03 xã ven biển: xã Hiệp Thạnh, xã Trường Long Hòa, xã Long Toàn (huyện Cầu Ngang) và xã Long Vĩnh (huyện Trà Cú), thành lập huyện Duyên Hải(8) ((8) Theo “Huyện Duyên Hải - Bảy mươi mùa Xuân khát vọng” - Trần Điền - Báo Trà Vinh ngày 13/02/2021).
Ngày 01/10/1951, chính quyền Bảo Đại thành lập quận Ba Động, trên cơ sở tách ra từ quận Cầu Ngang, đến ngày 16/4/1952, giải thể quận Ba Động(9). (9) Theo “Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859 - 1954)”, Nguyễn Đình Tư biên soạn - Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2017 (trang 617).
Hiệp định Giơnevơ ngày 20/7/1954 được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi, tỉnh Vĩnh Trà tự giải thể “không bằng một văn bản hành chính nào”, khôi phục lại trạng thái 02 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, huyện Duyên Hải nhập về với huyện Cầu Ngang như trước tháng 6/1951(10). (10) Theo “100 năm địa danh - địa giới tỉnh Trà Vinh (1900 - 2000) - Trần Dũng - Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn - Trường Đại học Trà Vinh, tháng 6/2000.
Ngày 03/01/1957, Bộ Nội vụ Việt Nam cộng hòa (ngụy quyền Sài gòn) ban hành Nghị định số 03-NĐ/HC/NĐ phân định bộ máy hành chính tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh). Theo nghị định này, bộ máy hành chính của chính quyền Việt Nam cộng hòa tỉnh Vĩnh Bình lúc này có thêm quận Long Toàn (gần giống với địa giới hành chính huyện Duyên Hải trước đó) gồm các xã Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa, Long Toàn, Long Vĩnh và có thêm xã Long Hữu, huyện Cầu Ngang, Quận lỵ Long Toàn đặt tại ấp Phước Trị, xã Long Toàn theo Nghị định số 39/BNV/HC của Bộ Nội vụ ngụy quyền Sài gòn.
Ngày 03/01/1957, ngụy quyền Sài gòn giải thể tỉnh Tam Cần (thành lập theo Sắc lệnh số 16-NV ngày 17/02/1956 của Tổng thống Việt Nam cộng hòa), nhập 03 huyện Cầu kè, Tiểu Cần, Trà Ôn (của tỉnh Tam Cần vừa giải thể) và huyện Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long) vào tỉnh Trà Vinh.(11) (11) Theo “Địa phương chí Vĩnh Bình” - Tòa hành chánh tỉnh Vĩnh Bình (ngụy quyền Sài gòn) ấn hành năm 1973). Đến thời điểm năm 1957, về phía chính quyền Sài gòn, tỉnh Trà Vinh có 8 quận: Trà Ôn, Cầu Kè, Vũng Liêm, Càng Long, Châu Thành, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Về phía chính quyền kháng chiến, ngoài 7 quận (tức huyện, không có huyện Long Toàn) nêu trên, còn có thêm thị xã Trà Vinh (do chính quyền kháng chiến thành lập năm 1948).
Tháng 4/1957, Chính quyền kháng chiến tỉnh Trà Vinh nhập huyện Tiểu Cần vào huyện Cầu Kè, lấy tên chung là huyện Cầu Kè.
Tháng 02/1962, Chính quyền kháng chiến tỉnh Trà Vinh quyết định tái lập huyện Duyên Hải trên cơ sở tách ra từ huyện Cầu Ngang có địa giới hành chính gần giống với địa giới hành chính quận Long Toàn của Chính quyền Sài gòn thành lập năm 1957.
Ngày 14/01/1967, Chính quyền Sài gòn ra Sắc lệnh số 06-SL/ĐUHC, tách hai quận Trà Ôn và Vũng Liêm, tỉnh Trà Vinh, nhập về tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1969, huyện Duyên Hải được Chính quyền kháng chiến tỉnh Trà Vinh nhập lại với huyện Cầu Ngang, gọi tên chung, huyện Cầu Ngang.
Tháng 10/1971, Chính quyền kháng chiến tỉnh Trà Vinh quyết định tái lập huyện Duyên Hải (tách ra từ huyện Cầu Ngang) và huyện Tiểu Cần (tách ra từ huyện Cầu Kè).
Từ năm 1971, đến ngày kết thúc chiến tranh (30/4/1975), tỉnh Trà Vinh có 08 đơn vị hành chính cấp huyện là: huyện Cầu Kè, huyện Càng Long, huyện Châu Thành, huyện Tiểu Cần, huyện Trà Cú, huyện Cầu Ngang, huyện Duyên Hải và thị xã Trà Vinh, với 63 xã, phường, 614 ấp, khóm(12). ((12) Theo “Lịch sử tỉnh Trà Vinh giai đoạn 1975 - 2020” - Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ấn hành tháng 12/2023 (trang 5) và “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân huyện Duyên Hải giai đoạn 1975 - 2015” - Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông ấn hành tháng 1/2018 (trang 12 - 13).
Ngày 11/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 59-CP: Hợp nhất huyện Trà Ôn (trừ 03 xã Hòa Bình, Xuân Hiệp, Thới Hòa) với huyện Cầu Kè và xã Long Thới, xã Tiểu Cần của huyện Tiểu Cần, thành một huyện lấy tên là huyện Cầu Kè; sáp nhập xã Hiếu Tử của huyện Tiểu Cần; xã Nguyệt Hóa, xã Lương Hòa, xã Đa Lộc, xã Thanh Mỹ và xã Song Lộc của huyện Châu Thành vào huyện Càng Long; sáp nhập xã Hòa Thuận, xã Long Hòa, xã Hưng Mỹ và xã Phước Hảo của huyện Châu Thành, nhập các xã Long Toàn, Long Vĩnh, Trường Long Hòa, Hiệp Thạnh, huyện Duyên Hải vào huyện Cầu Ngang, lấy tên chung huyện Cầu Ngang (xã Hiệp Thạnh sau đó được nhập vào với xã Mỹ Long, lấy tên chung xã Mỹ Long, huyện Cầu Ngang); sáp nhập xã Tập Ngãi, xã Hùng Hòa và xã Tân Hòa của huyện Tiểu Cần vào huyện Trà Cú. Ba huyện Tiểu Cần, Châu Thành và Duyên Hải được giải thể.
Ngày 29/9/1981, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Quyết định số 98-HĐBT: Tái lập hai huyện Châu Thành và Tiểu Cần, chia huyện Cầu Ngang thành hai huyện, huyện Cầu Ngang và huyện Duyên Hải.
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII (ngày 26/12/1991), ra Nghị quyết tái lập hai tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long trên cơ sở tách ra từ tỉnh Cửu Long. Tỉnh Trà Vinh tái lập chính thức đi vào hoạt động từ ngày 05/5/1992, có 07 huyện, 01 thị xã với 76 xã, phường, 643 ấp khóm(13). (13) Theo “Báo cáo của Tỉnh ủy Trà Vinh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ V, nhiệm kỳ 1992 - 1995”- Ban tổ chức Đại hội ấn hành (tài liệu mật).
Ngày 04/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP thành lập thành phố Trà Vinh trên cơ sở nâng cấp thị xã Trà Vinh.
Ngày 15/5/2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 934/NQ-UBTVQH13, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Trà Cú, huyện Duyên Hải, thành lập thêm tại tỉnh Trà Vinh một đơn vị hành chính cấp huyện - thị xã Duyên Hải.
Từ ngày 01/01/2025, tỉnh Trà Vinh có 09 đơn vị hành chính cấp huyện (tăng 01): huyện Cầu Kè, huyện Càng Long, huyện Tiểu Cần, huyện Châu Thành, huyện Trà Cú, huyện Cầu Ngang, huyện Duyên Hải, thị xã Duyên Hải, thành phố Trà Vinh, với 104 xã, phường, thị trấn (tăng 41), 752 ấp, khóm (tăng 138), so với năm 1975.
Tháng 3/2025
TRẦN ĐIỀN
Tài liệu tham khảo - “Lịch sử tỉnh Trà Vinh Tập Một, 1732 - 1945”, do Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh biên soạn - Ban Tư tưởng Tỉnh ủy Trà Vinh ấn hành năm 1995 . - “Lịch sử tỉnh Vĩnh Long 1732 - 2000”, do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long biên soạn - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội ấn hành năm 2002. - “Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam”, do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam biên soạn, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội ấn hành năm 2006. - “Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859 - 1954)”, do Nguyễn Đình Tư biên soạn - Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2017. - “Gia Định Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh - Dặm dài lịch sử 1698 - 2020 - Tập 1 - 1698 - 1945”, do Nguyễn Đình Tư biên soạn, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2022. - “Lịch sử tỉnh Trà Vinh giai đoạn 1975 - 2020” - Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ấn hành tháng 12/2023. - “Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân huyện Duyên Hải giai đoạn 1975 - 2015” - Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông ấn hành tháng 01/2018. - “Lược sử 290 năm từ Long Hồ dinh đến Vĩnh Long” - Cổng Thông tin điện tử Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long ngày 27/4/2022. - Bản đồ Nam kỳ lục tỉnh - Bình Thuận 1850 trên Wikipedia tiếng Việt. - Bản đồ Nam kỳ lục tỉnh thực hiện 1851 - 1852. - Bản đồ Nam kỳ 1878 trên Wikipedia tiếng Việt. - Bản đồ Nam kỳ 1861 - 1888 trên Wikipedia tiếng Việt. - Bản đồ địa hình huyện Trà Vinh 1888 (PLan ToPographique De Larrondissement de Travinh) trên Wikipedia tiếng Việt. - Bản đồ tỉnh Trà Vinh 1920 trên Wikipedia tiếng Việt. - Bản đồ tỉnh Vĩnh Bình 1971 trên “Địa phương chí Vĩnh Bình” - Tòa hành chính Vĩnh Bình ấn hành 1973.
|
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 06/2025/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non. Thông tư có hiệu lực từ ngày 05/5/2025.