18/12/2022 05:57
Giá trị cốt lõi nhất, căn bản nhất của truyền thống dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cộng đồng dân tộc, là nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cộng đồng dân tộc Việt Nam hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh và sau đó cùng chủ nghĩa Mác-Lênin tạo thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh Nhân dân, về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nội dung cơ bản nhất, cốt lõi nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh và đây là cống hiến đặc sắc về mặt lý luận, về thực tiễn đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần to lớn vào kho tàng lý luận Mác- Lênin.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế.
Văn hóa dân tộc Việt Nam là cội nguồn nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, đó là tinh thần yêu nước và tính cộng đồng. Đặc trưng của nền văn hoá đó là lấy nhân nghĩa làm gốc, trọng đạo lý làm người là đề cao mối quan hệ và trách nhiệm “Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước”. Đó là nền văn hóa trọng dân, đề cao dân, lấy dân làm gốc. Điều này đã được chứng minh qua các nhà nước quân chủ phong kiến, nhất là khi đất nước bị giặc ngoại xâm. Đó cũng là nền văn hoá khoan dung, hòa hợp để hòa đồng luôn rộng mở đón nhận, tiếp biến tất cả những giá trị nhân văn, tiến bộ của văn hóa trên thế giới có chọn lọc, phù hợp với Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt Nam có tâm hồn trong sáng vị tha, khoan dung, có tình thương yêu đồng loại, không cực đoan mà luôn uyển chuyển hài hòa, đây là yếu tố tạo nên tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc và tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung keo sơn gắn bó đặc biệt trong cách mạng giải phóng dân tộc chống kẻ thù chung.
Có thể nói, tinh hoa văn hóa phương Đông mà những tư tưởng căn bản của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực đến văn hóa Việt Nam là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người nhu thể thương thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Do đó, Phật giáo đã đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển của văn hoá, tư tưởng và lối sống Việt Nam. Nho giáo Trung Hoa vào Việt Nam do nhu cầu của sự thống trị, nhưng trong quá trình đó đã được Việt hóa thành Nho giáo Việt Nam thể hiện những giá trị về lòng yêu nước, thương dân, nhân văn, dung hòa con người cá nhân với cộng đồng, coi trọng lợi ích cộng đồng trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích dân tộc. Nho giáo Việt Nam lấy yêu nước, nhân văn Việt Nam là đạo lý làm người.
Trong điều kiện lịch sử của dân tộc, Nho giáo Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của dân tộc suốt quá trình dựng nước và giữ nước, xây dựng đất nước cũng như trong xây dựng gia đình, con người và xã hội. Những nhân tố tích cực của Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã ảnh hưởng tác động đến Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ sống trong môi trường văn hóa của làng xã Việt Nam và dưới sự dạy bảo của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sau này gặp lý luận Mác- Lênin về vai trò quần chúng Nhân dân trong lịch sử, đã nêu lên thành học thuyết chính trị của Người, học thuyết lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh đã viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân, trong xã hội không gì vẻ vang, tốt đẹp bằng phục vụ lợi ích của Nhân dân”(1) .
Để phát huy sức mạnh của Nhân dân, phải phát huy dân chủ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”(2). Quan điểm này thể hiện tư duy biện chứng, khoa học và mang tính cách mạng, nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân chủ được hiểu một cách giản dị, dễ hiểu. Dân chủ nghĩa là “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Dân là chủ đã khẳng định địa vị người chủ trong chế độ mới là Nhân dân, điều này hoàn toàn đối lập với thân phận nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến, thực dân trước đây. Dân là chủ song dân cũng làm chủ, phản ánh năng lực thực thi dân chủ cùa Nhân dân. Năng lực đó biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm..., thể hiện hành vi làm chủ, thể hiện sự kết hợp và thống nhất năng lực, địa vị của người chủ.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ Nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là Nhân dân làm chủ”. Cho nên, “nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ Nhân dân”. Trong chế độ mới: dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ đảng viên “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân” (3), tức là phải tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân. Trong mọi hoạt động, cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích Nhân dân lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân. Nhân dân có quyền được hưởng và được bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng.
Về mối quan hệ giữa Đảng với Dân: Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng Cộng sản phải: “Sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”; đồng thời từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định, mối quan hệ giữa Đảng với dân là mối quan hệ máu thịt: Đảng từ dân mà ra; “Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài”; “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(4). Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng. Đảng phải quan tâm đến lợi ích, tâm tư nguyện vọng của dân, biết giải quyết đúng đắn, kịp thời nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát Nhân dân; gương mẫu đi đầu trong lời nói và việc làm và dám chịu trách nhiệm trước dân.
Về phía Nhân dân, với vai trò là công dân của Nhà nước dân chủ, Nhân dân phải làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ, mỗi người dân phải chăm lo việc nước như việc nhà, “phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”. Người căn dặn, trách nhiệm, bổn phận của mỗi công dân phải “tận trung với nước”, góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh là tấm gương, là di sản vô giá cho giai cấp công nhân và dân tộc ta. Trong đó mọi thế hệ người Việt Nam và bạn bè gần xa trên thế giới đều có chung một cảm nhận: Tư tưởng đại đoàn kết của Người là ngọn cờ tập hợp các lực lượng yêu nước, yêu hòa bình và tiến bộ xã hội. Trong suốt cuộc đời cách mạng oanh liệt của mình. Hồ Chí Minh luôn luôn nêu cao tư tưởng đại đoàn kết, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và kết gắn dân tộc Việt Nam với khối đoàn kết Nhân dân toàn thế giới.
Các nhà nghiên cứu, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đều cho rằng tư tưởng đại đoàn kết là nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nhiều người khẳng định đại đoàn kết không chỉ là tư tưởng lớn, nổi bật của Hồ Chí Minh, mà đã trở thành một chiến lược cách mạng, Đồng chí Đỗ Mười viết: “Đại đoàn kết là chiến lược cơ bản, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Trong Hồ Chí Minh toàn tập, có đến 839 bài Bác đề cập đến vấn đề đại đoàn kết (chiếm tỷ lệ 43,6%). Trong các bài đó, Bác đã 1809 lần nhắc đến cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”, có bài cụm từ này được nhắc đến 16 lần (Sửa đổi lối làm việc - 1947), trong diễn văn Kỷ niệm ngày Quốc khánh 02/9/1957, Người nhắc đến 19 lần. Điều này chứng tỏ vấn đề tập hợp, tổ chức lực lượng, đoàn kết, đại đoàn kết là một vấn đề hết sức nổi bật, trọng tâm trong suy nghĩ và trong hành động của Người.
Đoàn kết, gắn bó cộng đồng là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhưng “đến Cụ Hồ thì đại đoàn kết được xây nên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của: “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Tức là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, trong tư duy lý luận của Người được hình thành và phát triển trên một nền tảng lý luận khoa học và thực tiễn phong phú, sâu sắc.
Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được gia đình, quê hương, đất nước trang bị cho những hiểu biết về văn hóa dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết nhân nghĩa của cộng đồng dân tộc; những kinh nghiệm, tư tưởng tập hợp lực lượng để dựng nước, giữ nước của các thế hệ yêu nước tiền bối; những giá trị nhân bản trong văn hóa phương Đông. Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó những nội dung cần kế thừa và phát triển để hình thành tư tưởng đại đoàn kết của mình. Những kinh nghiệm, tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng để chống Pháp thời cận đại của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... cũng ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tư duy, hình thành tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Những tư tưởng, kinh nghiệm tập hợp lực lượng yêu nước và tiến bộ của nhiều nhà cách mạng lớn trên thế giới cũng được Hồ Chí Minh lưu tâm nghiên cứu, học hỏi. Người nhiều lần đề cập tới tư tưởng cách mạng, kinh nghiệm tập hợp lực lượng của Tôn Trung Sơn (1866-1925), lãnh tụ cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Hoa và anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi (1869-1948). Đó là những yếu tố giúp Hồ Chí Minh hoàn chỉnh tư tưởng đại đoàn kết của Người.
Hành trình tìm đường cứu nước, năm 1920 Hồ Chí Minh đã tìm thấy và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là cơ sở lý luận quan trọng nhất để Hồ Chí Minh xây dựng tư tưởng đại đoàn kết của mình. Hồ Chí Minh quán triệt những tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Người tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại’', “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Hồ Chí Minh cho rằng Lênin là “hiện thân của tình anh em bốn bể”, Người khẳng định chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho các dân tộc, giai cấp vô sản thế giới sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước cũng như trên toàn thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
Tiếp thu và đi theo chủ nghĩa Mác- Lênin trên tình thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác những yếu tố tích cực, những hạn chế trong các di sản truyền thống dân tộc và văn hoá nhân loại; trong việc tập hợp lực lượng quần chúng Nhân dân, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết của mình.
Khi hình thành tư tưởng đại đoàn kết, Hồ Chí Minh nung nấu suy nghĩ về thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược đến đầu thế kỷ XX, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và vận động giải phóng dân tộc đều bị dìm trong bể máu. Rõ ràng trước kẻ thù mới là thực dân Pháp, chỉ có tinh thần yêu nước và sức mạnh đoàn kết tự phát không thể đánh bại được thế lực thực dân đế quốc. Thấy được những hạn chế lịch sử này, Hồ Chí Minh đã từ chối không đi theo Phan Bội Châu sang Nhật đề tìm đường cứu nước, Người muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào để trở về giúp đồng bào chúng ta. Như vậy, Hồ Chí Minh bằng tư duy lý luận nhạy bén đã sớm tổng kết được những kinh nghiệm của thực tiễn đất nước, nắm chắc được những đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam làm dữ liệu cho tư tưởng đại đoàn kết của Người.
Trong hành trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã khảo sát tỷ mỷ, toàn diện thực tiễn các nước tư bản chủ nghĩa cũng như các nước thuộc địa ở hầu hết khắp các châu lục. Từ đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự nghiệp giải phóng thuộc địa không phải là việc riêng của một nước nào. Người cho rằng: các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có sức mạnh, nhưng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, họ chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức, họ rơi vào thế “đơn độc”. Trong khi đó chủ nghĩa để quốc lại thực hiện nhất quán chính sách “chia để trị” trên bình diện từng nước và toàn thế giới.
Hồ Chí Minh kết luận: dù màu da có khác nhau, nhưng trên thế giới này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có tình hữu ái là thật mà thôi; tình hữu ái vô sản. Người nhắc nhở những người bị áp bức ở chính quốc và Nhân dân thuộc địa: “Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại”.
Để phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc xét cho cùng là phải phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và quyền làm chủ của Nhân dân. Khi nói đến sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nói đến toàn thể Nhân dân các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, không phân biệt nam, nữ, già, trẻ, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt người trong Đảng hay người ngoài Đảng, không phân biệt người Việt Nam ở trong nước hay sống ở ngoài nước. Do đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn bó chặt chẽ với phát huy dân chủ XHCN và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Thực tế cho thấy, nếu không phát huy được dân chủ XHCN thì cũng không thể phát huy được quyền làm chủ của Nhân dân và như vậy cũng không thể phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự kiện Chính phủ Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton trong bài phát biểu có đoạn: “…Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây…”. Hiện nay các thế lực thù địch chống phá Nhà nước ta thông qua học thuyết “dân chủ, nhân quyền” của phương Tây mà nội dung cốt lõi vẫn là cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “thiếu dân chủ”, “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Vấn đề dân chủ và nhân quyền kiểu phương Tây áp dụng với Việt Nam mà đích đến là xóa bỏ nền tảng tư tưởng Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng gây chia rẽ Nhân dân với Đảng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội như họ đã công khai tuyên bố “thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam”.
Vai trò của Nhân dân là lực lượng đông đảo, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các tầng lớp Nhân dân có sức mạnh tổng hợp cả vật chất và tinh thần trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các tư tưởng sai trái, thù địch.
Chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị nhằm trang bị cho người học kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chương trình gồm 5 khối kiến thức, trong đó nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh có 6 bài. Chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc”, trong nghiên cứu giảng dạy chuyên đề này người giảng viên cần phải quán triệt quan điểm của Đảng và những luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái thù địch về sức mạnh của Nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc. Nắm vững nguyên tắc về công tác dân tộc là: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đại hội XIII của Đảng đã có những bổ sung, phát triển quan điểm về nhiều vấn đề quan trọng của sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong đó có những nhận thức mới, rất sâu sắc về vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ XHCN và quyền làm chủ của Nhân dân; thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, sự sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo cách mạng ở nước ta hiện nay.
|
NGƯT. TS LÂM NGỌC RẠNG
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011,t2,tr297.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011,t13,tr10,454
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011,t9,tr31.
Vừa qua, tại hội nghị giao ban công tác Mặt trận quý III/2024, với chủ đề “Phát huy vai trò của Mặt trận trong tham gia XDNTM, nông thôn mới (NTM) nâng cao, NTM kiểu mẫu”, nhiều đại biểu đã chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp hay nhằm nâng cao chất lượng các tiêu XDNTM, NTM nâng cao, NTM mới kiểu mẫu gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết XDNTM, đô thị văn minh” trên địa bàn tỉnh. Phóng viên Báo Trà Vinh đã lược ghi những cách làm hiệu quả của Mặt trận các địa phương trong tham gia XDNTM, NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu.